TONY LƯƠNG TRIỀU VỸ _ “TONY NHỎ”

Nguồn tin: brns.com
Người dịch: ngan_sang_woo.
Biên tập: whitedaisy.

Tony Lương Triều Vỹ/ “Tony nhỏ”.
Sinh tại Đài Sơn, Quảng Đông vào 27/06/1962.

Tony Lương Triều Vỹ đã trở thành một trong những gương mặt được nhận diện nhiều nhất trên ảnh đàn quốc tế khi phim của tác giả Vương Gia Vệ hiện diện ở hầu như mọi liên hoan phim quốc tế trên thế giới này và điều này đã đưa tên tuổi của Wai-Chai (hay còn gọi là “Jai”- tiếng Quảng Đông để chỉ cho “cậu nhóc nhỏ”) trở thành một diễn viên thường xuyên nhận về nhiều lời tán thưởng cho mỗi phim anh xuất hiện. Tôi thật sự tin tưởng rằng anh là 1 trong những nam diễn viên giỏi nhất thế giới.

Châu Nhuận Phát có thể tự hài lòng với sự nổi tiếng và tài năng được công nhận của mình, nhưng “Tony nhỏ” mới là người quét sạch các giải thưởng Nam diễn viên chính xuất sắc nhất đến 8 lần. Tính trong các bộ phim của Vương Gia Vệ, Wai Chai giành giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho bộ phim Trùng Khánh Sâm Lâm (Chungking Express) ở Hongkong và Đài Loan, Xuân Quang Xạ Tiết (Happy Together) ở Hongkong và Đài Loan (bộ phim này còn được đề cử ở Cannes), và Hoa Dạng Niên Hoa (In The Mood For Love) ở Hongkong và Cannes – anh là diễn viên người Hoa đầu tiên có thể giành được những thành tựu này.

Anh cảnh sát yếu lòng trong “Chungking Express” (1994) là cột mốc đánh dấu thành công lớn của Tony trên đường sự nghiệp sau nhiều năm chờ đợi Kim Tượng “Best Actor”

“Happy Together” (1997) khắc nên câu chuyện tình đẹp nhất trong lòng fan Vương Gia Vệ và cũng khiến Quốc Vinh – Triều Vỹ được công chúng Hàn Quốc vinh danh là đôi tình nhân đẹp nhất trên màn ảnh. Đồng thời phim mang lại cho anh giải “Best Actor” lần 2 tại HKFA (1998)

“In the mood for love” (2000) mang lại vinh quang cho điện ảnh Hong Kong tại Cannes, có thể xem là tác phẩm chín muồi nhất của Vương Gia Vệ.

Anh còn giành giải Diễn viên phụ xuất sắc nhất cho phim Sát Thủ Hồ Điệp Mộng (My Heart Is That Eternal Rose, Anh Hùng Nhân Dân (People’s Hero).

“Địa Hạ Tình” (1986) là bộ phim lần đầu tiên đưa anh đến với đề cử “Best Actor” tại HKFA (Hongkong Film Awards)

Tên cướp ngân hàng nghiệp dư liều lĩnh và nhút nhát trong “People’s Hero” (1987) mang về cho anh Kim Tượng đầu tay hạng mục “Best Supporting Actor”

“Sát thủ hồ điệp mộng” mang lại “Best Supporting Actor” lần 2 cho anh tại HKFA (1990)

Được tạo hóa ưu ái cho nét đẹp trong trẻo như một cậu bé, Wai Chai khởi nghiệp truyền hình bằng cách nộp đơn vào lớp đào tạo TVB và chủ trì tiết mục trẻ em tên gọi “Tàu không gian 430” (430 Space Shuttle) – tương đương với Sesame Street ở đầu thập niên 80. “Tàu không gian 430” còn giới thiệu thêm 2 gương mặt nữa đến khán giả là Tăng Hoa Thiên (Margie Tsang) và Châu Tinh Trì (Stephen Chow). Trong 1 cuộc phỏng vấn, Châu Tinh Trì đã thổ lộ về những khó khăn xưa kia của anh và tâm sự rằng vẻ đẹp duyên dáng của Wai Chai đã giúp anh ấy dễ dàng thâm nhập vào làng giải trí Hongkong hơn anh. Thật ra, chính Châu Tinh Trì đã khuyến khích Tony ứng tuyển vào TVB năm 1982. Năm 1999, vua hài Châu Tinh Trì vẫn tự ngạo bản thân mình là “1 diễn viên quần chúng” (“ka leh feh” – 1 từ còn hạ thấp giá trị hơn cả “diễn viên phụ”), trong thực tế đầu thập niên 80, Châu hầu hết chỉ sở hữu những tuyến vai phụ trong những bộ phim vô danh và mờ nhạt mà có khi khá lắm anh mới có được hai câu thoại, trong khi Wai Chai đã diễu hành qua 1 loạt vai chính trong nhiều phim bộ.

Giữa thập niên 80, Tony đã vươn tới đỉnh cao tại TVB, anh được giao cho những vai diễn đáng yêu trong các bộ phim nhiều tập như Tân Trát Sư Huynh 84 (Police cadet’ 84), Lộc Đỉnh Ký (Duke of Mount Deer), Ỷ Thiên Đồ Long Ký (The Heaven Sword and The Dragon Sabre),…Tài nghệ của anh ở TVB khiến anh trở thành một cái tên chủ chốt, tạo nên một hiện tượng được yêu chuộng trong khắp các cộng đồng người Hoa trên toàn thế giới. Có lẽ không 1 đứa trẻ người Hoa nào thuộc thế hệ đó lại không có chút ký ức nào về vai diễn cậu nhóc Vỹ Kiệt trong Tân Trát Sư Huynh cũng như Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký. Như Thành Long (Jackie Chan) và Hồng Kim Bảo (Sammo Hung) là 1 phần tuổi thơ của cộng đồng người Hoa, Wai Chai cũng thế.

Trương Vô Kỵ là một thành công điển hình của anh ở thể loại võ hiệp kỳ tình

1 cuộc sống tốt đẹp, bạn nghĩ thế ư? Nhưng những năm tháng mà Tony đã trải qua không êm ả chút nào. Cha của anh là 1 tay nghiện rượu cờ bạc đã bỏ rơi gia đình – Tony, mẹ anh, và em gái anh. Ở tuổi 15, anh phải bỏ học và bắt đầu làm việc lặt vặt nhằm kiếm thêm thu nhập để đỡ đần gánh nặng tiền bạc cho 1 gia đình lao động vắng bóng người cha.

Tony vẫn là 1 trong những người đàn ông được khao khát nhất tại Hongkong, là mục tiêu săn đuổi ưa thích không ngừng của các tay paparazzi. Mối tình không ngừng tan-hợp giữa anh với Lưu Gia Linh (Carina Lau) đã kéo dài gần 13 năm.

Giới truyền thông thích áp dụng các học thuyết của Freud để lý giải tại sao Wai Chai chưa kết hôn, mặc dù anh từng trải qua khá nhiều mối quan hệ nghiêm túc, nhưng vẫn chưa tính đến chuyện kết hôn như họ.
Họ nói Wai Chai đã bị tổn thương, bị ảnh hưởng từ hình tượng người cha không kiên định đã bỏ mặc mẹ con anh. Chúng ta sẽ chẳng thể nào biết được liệu điều này có đúng hay không, trừ phi là đích thân anh nói ra. Tăng Hoa Thiên (Margie Tsang), Lê Mỹ Nhàn (Kitty Lai), Lưu Gia Linh,…họ đều là bạn gái 1 thời của anh. Tin đồn mới nhất là trong suốt quãng thời gian quay phim Anh Hùng (Hero), anh và Trương Mạn Ngọc (Maggie Cheung) đã khuấy động tâm trạng bị kiềm nén từ In The Mood For Love và cảm xúc họ dành cho nhau từ thời cộng tác ở TVB những năm 80.

Tân Trát Sư Huynh – thành công lớn tại bước khởi điểm của Triều Vỹ – Mạn Ngọc

Paparazzi thậm chí còn cho chúng tôi 1 tấm bản đồ lần theo dấu vết các tiệm ăn, khách sạn, và dấu xe đạp mà anh và Maggie đã ban vinh dự cho 1 thành phố ở Trung Quốc suốt thời gian quay phim.Báo chí thậm chí còn khẳng định rằng hôn nhân của Maggie với đạo diễn Pháp Oliver Assayas đang trên bờ vực thẳm vì Wai Chai. Uh huh.

Chỉ mới 39 tuổi, sự nghiệp của Tony đã trải dài 20 năm, bao gồm hơn 50 phim điện ảnh và 25 phim truyền hình TVB. Thật ra, tôi không có thời gian để đếm kỹ, điều đó cho thấy nền công nghiệp điện ảnh Hongkong hoạt động với năng suất hăng hái và cuồng nhiệt cỡ nào. Số lượng có thể không phản ánh chất lượng nhưng diễn xuất của Tony thường đạt tầm tốt nhất. Những nam nữ diễn viên khác có thể được nhắc đến về diện mạo lạ thường, những chuyện tình, chuyện phẫu thuật, gặp rắc rối với luật pháp, nghiện ngập, và bất cứ điều gì để được đăng báo, nhưng Tony có thể được nói đến 1 cách độc lập chỉ vì khả năng diễn xuất của anh.

Angelina Jolie có thể được gán là một nhân tài khi cô thủ vai 1 người mắc chứng loạn tinh thần, nhưng một người diễn viên Hongkong hạng trung bình đã từng đóng dạng vai ấy 100 lần và nhiều hơn thế trong phim điện ảnh và truyền hình, hàng loạt vai diễn đáng ngạc nhiên mà các diễn viên Hongkong đã kiến tạo nên thậm chí còn chẳng được quốc tế biết đến. So sánh Russell Crowe với 1 diễn viên HK điển hình, anh ấy ngay lập tức teo quắt lại thành quả mận khô cho xem.

Wai Chai cũng không ngoại lệ. Wai Chai đã đóng mỗi vai diễn từ những dạng nhân vật có thể hình dung được cho đến những mẫu người không thể hình dung ra: Người nghệ sĩ đồng giới, khó tính, ăn vận toàn màu hồng trong Gorgeous. Lại vai 1 người đồng tính nữa – bạn trai của nhân vật do Leslie Cheung (Trương Quốc Vinh) diễn, chất chứa đầy nỗi buồn, bị tình yêu xâu xát…thơ thẩn lang thang trên các con phố ở Argentina trong Happy Together. 1 gã Vi Tiểu Bảo (Wai Siu Bo) dốt đặc, thô bỉ và vui nhộn (nhân vật mà sau này Châu Tinh Trì đã thể hiện trong Royal Tramp 1&2), con trai của 1 kỹ nữ lầu xanh chỉ nhờ vận may và che đậy danh giá đã trở thành thượng quan tối cao của triều đình Mãn Thanh và là bạn thân nhất của hoàng đế do Andy Lau (Lưu Đức Hoa) diễn trong phim bộ Lộc Đỉnh Ký (The Duke of Mount Deer – 1984). Một tay cảnh sát chìm đầy lương tâm buộc phải giết người và phản lại ý nguyện của mình trong Hard-boiled. Đó chỉ là 1 vài họa tiết hiện về trong tôi khi nhắc đến Tony.

Tony thể hiện vai cảnh sát chìm với những mâu thuẫn xâu xé trong “Hard-boiled”

Bài viết vào năm 2001 nên chưa đề cập đến một bộ phim quan trọng trong sự nghiệp của Tony là “Vô Gian Đạo” (2003). Cũng với vai cảnh sát chìm nhưng cách thể hiện của anh hoàn toàn mang một bản sắc khác so với Lãng trong “Lạt Thủ Thần Thám”

Không cần phải biện hộ gì về khả năng diễn xuất của anh. Tôi tin tài năng của anh đối với tất cả chúng ta được thể hiện tiêu biểu qua vai diễn trong phim In The Mood For Love. Nhân vật Châu của anh là một tay ký giả luôn ước ao được trở thành một nhà văn tiểu thuyết võ hiệp vào những năm 60. Đây là 1 người đàn ông mà đời sống tình cảm của anh chỉ có thể tìm được nơi để tỏ bày và tự do trong tiểu thuyết võ hiệp; sự nghiệp của anh ta, biểu tượng cho nghĩa vụ xã hội, cần tính khách quan và thông suốt của nghề báo. Trái tim anh ta thuộc về thế giới không-trọng-lực và đầy màu sắc tưởng tượng của các trang tiểu thuyết nghệ thuật đẹp, nhạy cảm. Nhưng thực tại của anh lại chỉ là một nhịp sống đều đều trong môi trường lao động nghèo, lại càng trầm trọng thêm khi cuộc hôn nhân của anh đang tan thành mây khói. Dù Tony có phải là 1 diễn viên diễn xuất theo phương pháp hay không, chắc chắn 1 điều rằng: phong cách kiềm chế cảm xúc của anh đặc biệt gợi nhớ về đức tính chịu đựng của người Hoa.

Gương mặt của anh nói lên tất cả: Đó là 1 khuôn mặt điềm tĩnh và trầm lặng nhất che đậy sau đó là cả một biển lòng giông bão của trái tim anh và những niềm đau. Phong thái của anh mộc mạc bình dị trong khi lại có thể hoàn toàn truyền tải sức căng của 1 nội tâm đang phải kiềm nén cảm xúc và một mảnh tâm hồn không còn nguyên vẹn.
Tôi không có tài liệu ghi lại điều đó, nhưng tôi tin vai diễn của anh trong In The Mood For Love có thể là chân dung của Kim Dung, tiểu thuyết gia võ hiệp thập niên 60 (còn là một nhà báo) – người đã sáng tác nên rất nhiều tác phẩm khơi nguồn cảm hứng cho TVB sản xuất những phim bộ võ hiệp – Tony diễn vài bộ trong số ấy như Lộc Đỉnh Ký và Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Heaven Sword and Dragon Sabre). Nhân vật Châu hẳn là 1 vinh dự cho Tony và cho người Trung Hoa. Nhân vật trong In The Mood For Love đại diện cho 1 truyền thống mạnh mẽ của tiểu thuyết võ hiệp. Và làm thế nào nó lại là lối thoát duy nhất – nơi mà các lượng hữu cơ của trí tưởng tượng hư cấu tự do ngự trị trong nền văn hóa vốn nhấn mạnh chuẩn mực cư xử, theo đạo Khổng, và thoát khỏi con đường mà trái tim và lý trí mách bảo. Theo tôi thật mỉa mai khi cho rằng nhờ Tony đóng vai nhà sáng tạo của chính những vai diễn đã củng cố vị trí ban đầu của anh khiến anh trở thành nam diễn viên xuất sắc nhất mà Hongkong từng có.

Chỉ một vài lời của riêng tôi dành về Tony. Rất ít nam diễn viên nào trên thế giới có thể khiến khán giả mục kích rõ ràng nhất sự kết hợp giữa nét duyên dáng quyến rũ cực kỳ và thứ phẩm chất trầm mặc, ưu tư. Bất kể là đắm mình thỏa thích trong những tấn hài ngốc nghếch (như Đông Thành Tây Tựu “The Eagle Shooting Heroes” , A Phi và A Ký “Days of Being Dumb”), những chuyện tình bay bổng nhẹ nhàng hoặc luyến tiếc, hoài niệm nói chung (như Phong Trần Tam Hiệp “Tom, Dick and Hairy” và Tân Nan Huynh Nan Đệ “He Ain’t Heavy, He’s My Father”), chính kịch (thiên về dòng phim nghệ thuật hơn là thể loại “mê-lô”) hay phim hành động khốc liệt (các tác phẩm kiếm hiệp cũng như súng đạn đương thời). Anh mang đến nét tự nhiên đáng kinh ngạc cho từng vai diễn, hòa bản thân mình vào nhân vật và gần như luôn luôn trở thành tâm điểm của sự chú ý trong mắt khán giả. Bất cứ khi nào anh muốn gây sự chú ý với bạn, anh ta chỉ cần cho bạn một cái nhìn như chú cún con và thế là bạn đã bị mê hoặc. Bất kể là thể loại gì, vai nào hay thời đại nào, Tony đều có thể trông rất thoải mái và hòa trộn mình tan vào nhân vật đó.Trên chặng đường sự nghiệp rất dài, đầy đa dạng biến chuyển, và vượt khỏi biên giới Hongkong – Tony đã xuất hiện trong 2 phim của đạo diễn Đài Loan Hầu Hiếu Hiền (Hou Hsiao Hsien) và 1 phim Việt Nam cũng như rất nhiều tác phẩm Hongkong – theo tôi có vài vai diễn thật sự kiệt xuất – Anablela đã đề cập đến Happy Together và In The Mood For Love rồi, nhưng ở đây còn những những vai khác nữa.

Sát Thủ Hồ Điệp Mộng (My Heart is That Eternal Rose – 1988) – mặc dù đã có một sự nghiệp truyền hình vững chắc song đây mới là một trong những vai diễn đầu tiên đã thật sự đưa anh lên con đường trở thành ngôi sao điện ảnh. Dù nhận vai thứ chính bên cạnh Chung Chấn Đào (Kenny Bee), anh đã khéo gây chú ý với vai thuộc hạ canh gác trong băng đảng xã hội đen đã phải lòng nhân tình của ông chủ – Vương Tổ Hiền (Joey Wong).

Điệp Huyết Nhai Đầu (Bullet In The Head – 1990) – Tony hoàn toàn tỏa sáng trong tác phẩm kinh điển của Ngô Vũ Sâm (John Woo) khi nhân vật của anh cùng 2 người bạn trải qua chặng hành trình từ sự trong trắng thơ ngây thời tuổi trẻ đến hiện thực tàn nhẫn.

Lạt Thủ Thần Thám (Hard-boiled – 1992) – Dù trên lý thuyết Châu Nhuận Phát (Chow Yun Fat) là ngôi sao của phim, nhưng chính vai cảnh sát chìm với cá tính rắc rối, phức tạp của Tony mới là nhân tố thúc đẩy dòng xúc cảm cho phim.
Trùng Khánh Sâm Lâm (Chungking Express – 1994) – Sau khi bạn gái bỏ đi, nhân vật của Tony thành khẩn chuyện trò với thanh xà phòng và khăn mặt mà chẳng hề chú ý đến sự xâm nhập của Phi (Faye Wong) vào cuộc sống của anh mãi đến khi anh gần như đã quá muộn màng trong mối tình bất ngờ tuyệt vời này.

Chungking Express rộn ràng giục giã và cũng rất trong trẻo miên man

Đông Tà Tây Độc (Ashes of Time – 1994) – trong mê lộ của một bộ phim bí ẩn rối rắm khác thường này, nhân vật kiếm sĩ của Tony sắp mù lòa nhưng vẫn còn một trận đánh phía trước để về bên người yêu đã lay chuyển lòng người mạnh mẽ.

Xích Lô (Cyclo – 1996) – Tony xuất ngoại khỏi HK để tham diễn phim này của đạo diễn gốc Việt Trần Anh Hùng với vai gã trai phóng đãng không gặp thời ở đất Hà Nội. Gã là một kẻ hèn hạ nhưng tài hoa.

Ám Hoa (The Longest Nite – 1998) – trên những con đường đầy xã hội đen ở Macau, đó là 1 vai phản diện hiếm hoi của Tony, anh vào vai 1 tay cảnh sát bẩn thỉu đồi bại ấy thế mà vẫn giành được sự đồng cảm của chúng ta.

Đông Kinh Công Lược (Tokyo Raiders – 2000) – 1 Tony hoàn toàn duyên dáng, lịch sự và ngọt ngào khi vào vai một người đàn ông mang ô bí ẩn trong mảng phim hành động kỳ quái giống như Avengers này.

Ảnh: baidu, weibo, mtime.

Bình luận về bài viết này